Tiến Sĩ LÊ HIỂN DƯƠNG |
Ngày nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy năm Chúa
Kitô giáng sinh làm mốc định thời gian, chúng ta đang ở vào năm 2010, tức là
2010 năm kể từ ngày Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay lịch sử cũng được
xác định dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn không
liên quan gì đến niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẵng hạn nhà toán học
Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn Công trị vì từ
năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra năm
42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC (before Christ) hoặc
AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc sau Thiên Chúa giáng thế.
Riêng người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng tư năm
1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay “hồi sau giải
phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và không thấy gì phản cảm
khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện với
một đồng nghiệp người nước ngoài rằng “…after the liberation of the south…” thì
ông ta sững sốt hỏi ngay rằng “… liberation from what?…” – Giải phóng khỏi cái
gì? Thì tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của
người Việt… bởi đối với hầu hết người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với
cả đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì “giải phóng” là một nỗi ám
ảnh trong cả đời người…
Còn nhớ ngày 30 Tư năm 1975, lúc đó
chúng tôi còn là sinh viên của đại học sư phạm Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo
meeting nhiều đêm ngày để mừng Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng
tôi tin rằng từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi sẽ không còn đói
rách lầm than và không còn sống trong cảnh “ngụy kềm, Mỹ hãm” nữa… Họ đã được đảng
và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải phóng. Và những tháng tiếp theo đó
chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn bị sự trừng
phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số
là mỗi tuần một lần. chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường
thông báo vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo
là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa
phương để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi
sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa
để khi đoàn xe tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu
những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với
đất nước… Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội
họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh
dự đứng vào hang ngũ của đảng vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền
đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm
điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập
kích” đó…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe
qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn
rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường
đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!
Nhận xong nhiệm sở từ ty giáo dục Đồng
Tháp, chúng tôi được đưa về công tác tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp
ngay tại trung tâm của thị trấn Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền
chúng tôi được bố trí ở tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch
biên từ tên tư sản Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp
khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết
được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An
chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên,
để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến
kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng
và có thơ ca ngợi rằng:
“Hoan
hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên
quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã
viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác
xã… Tôi thấm thía hơn với những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu
mà ngoài sinh viên học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy
giờ ai cũng thuộc nằm lòng:
“Dọn
tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải
phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của
đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều
giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi
bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm
thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà
dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…
Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa
mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt
của nước nhà… “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh
phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả
16 tấn vàng ròng… những tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng
16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải
phóng” đồng nghĩa với cảnh côi cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất
cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa… Giải
phóng cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ..
mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết
tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng” cũng
chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho một nhóm quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh nỗi
hãi hùng của muôn dân, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào lại
phải vô tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng mặt
bằng là cái chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương tật của
nông dân Lê Thị Thanh …
Chẳng biết người dân Việt nam từ nay
còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc
thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa
ra từ ngữ “giải phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì
nó mà phải khổ lụy đến dường này.
Tiến Sỹ Lê Hiển Dương - Cựu Hiệu
Trưởng Đại Học Đồng Tháp
Đồng Tháp ngày 16 tháng 2 năm 2015
PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA
TS LÊ HIỂN DƯƠNG VỀ "GIẢI PHÓNG MIỀN NAM"
Kính chào ông Lê Hiển Dương – Tiến
sĩ,
Cựu Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp,
|
Thưa Ông, bài báo ngày đầu năm 2012
vô tình tôi được đọc là bài “GIẢI PHÓNG” Nỗi kinh hoàng của người dân Nam Việt,
bài viết này là của Ông. Bài được đăng trên Hải ngoại phiếm đàm Online ngày
05/01/2012, cuối bài viết có ghi trọn vẹn tên tác giả cùng học vị và chức vụ. Học
vị cùng chức vụ và nhất là qua bài viết của ông, cho tôi biết ông đã một thời
là cán bộ giáo dục của nhà nước cộng sản hiện thời Việt Xã Nghĩa, còn tôi cũng
xin vài dòng được nói về mình. Tôi một người tù mà các người cộng sản chiến thắng,
gọi xách mé là sĩ quan Ngụy của 36 năm trước, trên bước đường tù biệt xứ đã hai
lần, tôi đươc hân hạnh đi ngang qua thành phố Vinh của ông. Khi chúng tôi đọc
xong bài của ông viết, tôi biết ông là người như thế nào, những gì ông suy nghĩ
khiến chúng tôi mến ông, và thấy cần phải viết vài dòng xin được thưa chuyện
cùng ông, những dòng chữ đậm là tôi xin phép ông được ghi lại những
gì ông đã viết.
Không giấu gì ông, ban đầu sau khi đọc
xong bài ông viết, tôi định cho nó qua, nhưng câu kết của ông như níu tôi lại,
khiến tôi thấy nên nói chuyên với ông thì quí hơn, vì mấy khi ta gặp được người
như ông. Ông Dương ạ câu kết ông viết Chẳng biết người dân Việt nam từ nay
còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc
thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa
ra từ ngữ “giải phóng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến
dường này. Câu này làm tôi thấy chúng ta tuy là kẻ Nam người Bắc, nhưng vô
tình lại chung phận là nạn nhân, nạn nhân của kẻ bợm, chúng sống bằng sự lừa lọc
dối trá, sự trí trá đó khiến biết bao người “sinh bắc tử nam” mất con, mất
chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở
về nữa”.
Đó là phần không may cho dân miền Bắc,
còn miền Nam như ông thấy đó và ông đã viết “là tù đày, là cải tạo nơi rừng
thiêng nước độc, là mất vợ mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người
thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc!”. Để
rồi những kẻ bợm CS đó chúng đoạt lấy tất cả, những gi của người dân hai miền
Nam-Bắc nước ta, từ cơ bản quyền làm người đến của cải vật chất, chúng dìm đời
sống người dân cả nước xuống tận bùn đen, còn sự tồn vong của đất nước thì đang
trong tình trạng treo chỉ mành. Trong những cái chúng cướp đoạt của đất nước,
có cả 16 tấn vàng là số vàng thuộc tài sản quốc gia, mà chính phủ VNCH để lại,
chúng đã chia chác nhau số vàng này, và cái tận cùng bỉ ổi là chúng lại tuyên
truyền là chính quyền miền nam đã lấy số vàng đó. Nhưng nay tất cả người dân VN
đều biết như ông viết, kẻ lấy số vàng 16 tấn không ai khác hơn là 16 tên chóp
bu bộ chính trị CSVN “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui,
niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột
tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội,
chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi…”, Cám
ơn ông thật nhiều Ông Lê Hiểu Dương ạ, sự thực cuối cùng vẫn là sự thực.
Sau ngày 30 tháng 04 năm 75, trước
khi chúng tôi bị đưa ra miền bắc để lưu đày, các “ông cộng sản” đã nói với
chúng tôi về thiên đường cộng sản xã hội chủ nghĩa miền bắc như sau: Miền Bắc
XHCN không có người nghèo kẻ giàu, không có nhà cao tầng, và cũng không có nhà
lá, tất cả đều nhà gạch giống như nhau, ý nói kiểu nhà cư xá hay chung cư,-
Không có kẻ rách rưới, mà kẻ khác thì dư thừa tơ lụa, tất cả đều bận kaki Nam định
thoải mái. Miền bắc XHCN vật chất thì nhiều vô kể, không thiếu một thứ gì, còn
trong Nam toàn thể dân chúng, và ngay cả trong trại, tất cả mọi người phải sống
trong khó khăn thiếu thốn, đó là do tàn dư của chế độ tư bản Mỹ Ngụy để lại, rồi
đây miền Bắc sẽ chi viện cho miền Nam(?). Nghe nói vậy cũng có nhiều anh em tù
tin, xã hội cộng sản mà, tất cả đều bình đẳng, cái ăn, cái mặc, cái ở đều như
nhau, chủ thuyết của Mác Lê, chả mong muốn xây dựng một nhà nước, một xã hội
theo mô hình như thế là gì (!).
Nhưng cũng như ông nói, ông nhận ra sự
thật khi vào nam,“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây
là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả
thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy
giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để
tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn
Chí Thanh”. Thì sự thật phũ phàng cũng đến với chúng tôi, khi chúng tôi vượt
qua cầu Hiền Lương, trên bước đường lưu đày lên mạn ngược, lần đó qua cầu Hiền
Lương là vào khoảng 10 giờ sáng, đây đất Đồng Hới nào thấy đâu nhà gạch, Quảng
Bình quê ta nào thấy đâu giàu đẹp. Cả một vùng xác xơ đều khắp với những mái
tranh vách đất tiêu điều, dọc đường thỉnh thoảng một vài ngôi nhà xây, đấy là
những nhà gạch duy nhất mà chúng tôi thấy, nhìn kiểu dáng kiến trúc cho thấy
chúng đã có từ thời Pháp. Cái nhiều mà chúng tôi thấy được trên chuyến đi là khẩu
hiệu, suốt chuyến đi hai bên đường không biết cơ man nào là khẩu hiệu, đều là
khẩu hiệu màu đỏ máu, chữ vàng, to có nhỏ có, dài có ngắn có, ca ngợi hết lời
tình hữu nghị Việt Hoa, như răng với môi, như anh với em, tình đồng chí đời đời
bền vững. Ngoài ra cũng không ít những cái suy tôn họ Hồ, họ Mao, Các Mác, Lê
Nin, tất cả các chữ dao to búa lớn như vĩ đại, vô địch, quang vinh.v.v…đều được
đem ra dùng tối đa.
Cũng ngay trong lần đầu diện kiến
dung nhan thiên đường cộng sản đó. Xe vừa vào tới Đồng Hới, thì đậu tập trung
chờ lịnh bên đường, tình cờ giờ tan trường, những trẻ học trò tò mò đứng nhìn
đoàn xe bít bùng. Học sinh là mầm non đất nước, tương lai của cả một dân tộc,
mà dường như những đứa trẻ này, thiếu ăn như lủ tù chúng tôi hay sao?, mà nhìn
chúng gầy và xanh quá, quần áo chúng luộm thuộm rách rưới. Vậy mà chúng lại
đang sống trong cái thiên đường XHCN, do đảng cộng sản quang vinh tể trị… cái
khăn quàng màu máu trên cổ chúng, nói thêm một điều nữa, Chúng là cháu ngoan họ
Hồ. Chúng đang học tập và theo gương Bác vĩ đại của chúng, nhưng không hiểu lý
do gì mà nhìn chúng thảm quá, như phường ốm đói. Đấy ông Dương thấy không, tôi
có khác mấy chi ông khi ông đặt chân vào miền Nam như ông nói, “Chúng tôi thực
sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng..
rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu
đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!”.
Ông Lê Hiển Dương mến, quê ông là
Vinh, quê ngoại tôi cũng là Vinh, nhưng tôi không sống ở đó, tôi chỉ được cái
hân hạnh đi ngang qua thành phố Vinh hai lần, năm 1975 trong lúc chuyển tù từ
nam ra bắc. Và năm 1981 sau khi TQ đánh vùng phía bắc sáu tỉnh biên giới, chúng
tôi đựơc di dần vào trong, chuyến xuôi nam bất đắc dĩ, mà nhà nước cộng sản
không muốn tí nào, tôi biết chắc như thế. Họ muốn chúng tôi phải vùi thân nơi
núi rừng tây bắc họ mới vui, lý do gì thì ông thừa biết phải không ông Dương,
những gì ông nói ra cho thấy ông rất thành thật, vì những gì ông làm cho chúng
tôi tại Vinh. Thì tại các nơi khác người dân nơi ấy cũng làm theo một cách như
ông, vì đó là chính sách chung của Đảng, ông ném đá thì họ cũng ném đá, thậm
chí có người xấn xổ nhổ nước bọt vào chúng tôi. Thoạt đầu thì chúng tôi khó chịu
vì sự lỗ mãng của họ, nhưng khi thấy những nụ cười đểu của bọn cán binh áp tải,
thì chúng tôi nhận ra ngay đấy là những gì người dân bị “make up”, hoàn cảnh
chúng tôi lúc đó, không khác gì cảnh trong những thước phim tài liệu “đấu tố” cải
cách ruộng đất năm nào.
Ông nói “những tháng tiếp theo
đó, chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn, bị
sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính
chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần, chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu
nhà trường thông báo, vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp, chuyển
tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang
qua địa phương, để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa
phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường
ray xe lửa, để khi đoàn xe tù đi ngang qua, là hô hào toàn dân trút những trận
mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với
nhân dân, với đất nước…Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng
tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào
đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng, vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ
quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi
cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi
nhận trong những vụ “tập kích” đó…”
Nay đã hơn ba mươi sáu năm, sau ngày
oan nghiệt của vận nước, muốn hay không muốn chúng ta cũng phải thấy, Nam hay Bắc
đều là nạn nhân của bọn cộng sản vong nô, chúng tôi không trách ông đâu Ông
Dương ạ. Thứ nhất vì cái thành thật của ông làm chúng tôi mến, thứ đến là đã có
người xin lỗi chúng tôi thay cho ông rồi, những người làm việc tạ lỗi với chúng
tôi là những người nghèo bán hàng rong tại nhà ga thành phố Vinh của ông. Chúng
tôi cảm được cái ray rứt trong lòng ông qua câu ông viết “Kết thúc 4 năm đại
học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng
tôi cũng tốt nghiệp đại học…”.Nên chúng tôi xin mạn phép gởi đến ông một đoạn
ký sau đây để ông đọc, mà thấy được rằng cái thật luôn tỏa sáng và làm rung động
lòng người, cũng tựa như cái thật của ông đã làm cho chúng tôi mếm.
XUÔI NAM….
…Ðoàn tàu vẫn tiếp tục lăn bánh, hướng
về nam với rộn rã của tiếng bánh xe gõ nhịp trên đường ray, tấm bảng cắm bên đường
cho thấy ga kế tiếp là nhà ga Vinh. Thành phố Vinh là quê ngoại của Mẹ tôi, thuở
còn nhỏ Mẹ theo Ngoại nhiều lần về Vinh. Nhận xét về quê của mẹ sau bao nhiêu
năm nhìn lại, trong lần ra bắc thăm nuôi tôi, Mẹ bùi ngùi nói không có gì thay
đổi, tất cả vẫn như xưa, có chăng là mọi vật cũ đi theo thời gian mà thôi. Còn
tôi tuy biết Vinh là quê ngoại, nhưng trong tôi, sau năm 75 trong chuyến lưu
đày ra xứ bắc, tôi cũng đã qua đây vào một đêm, nhưng tình cảm lần đầu tiên đó,
không phải thứ tình cảm bồi hồi nao nao, khi đi qua chốn mà mình biết đó là quê
mẹ.
VIỆT NHÂN
|
No comments:
Post a Comment